Hiện nay hầu hết tất cả các tổ chức từ chính phủ tới phi chính phủ, từ doanh nghiệp tới cá nhân đều hướng tới hoạt động Sử dụng và tiết kiệm năng lượng theo hướng bền vững.
Theo dự báo của các tổ chức quốc tế và nhiều chuyên gia, đến năm 2050,
nhu cầu về năng lượng ở nước ta sẽ tăng lên 15 lần và chất thải cacbon
phát ra do tiêu dùng năng lượng sẽ tăng 26 lần so với năm 2000. Bởi
vậy, nếu không kịp thời có những chính sách phát triển năng lượng bền
vững, thì Việt Nam sẽ đứng trước nguy cơ thiếu hụt năng lượng và chuyển
thành nước nhập khẩu năng lượng trong tương lai.
Nguy cơ thiếu hụt năng lượng
Theo
số liệu thống kê năm 2012 của Bộ Xây dựng, cả nước hiện có khoảng 756
đô thị các loại; con số này được dự báo sẽ tăng lên 1,5 lần trong giai
đoạn 2015 - 2020. Đến năm 2025, dân cư đô thị được dự báo sẽ đạt xấp xỉ
52 triệu người, chiếm khoảng 50% tổng dân số cả nước. Điều này đồng
nghĩa với việc nhu cầu xây dựng hạ tầng đô thị, đặc biệt là nhà ở tăng
cao; kéo theo đó là nhu cầu sử dụng năng lượng ngày càng lớn hơn. Cùng
với đó, ô nhiễm môi trường cũng ngày càng trầm trọng hơn.
Với
việc phát triển thiếu quy hoạch như hiện nay, tới năm 2025, Việt Nam
được dự báo sẽ thiếu hụt tới 70% tổng năng lượng tiêu dùng cần thiết,
kéo theo đó là nhu cầu nhập khẩu tăng cao và giá cả năng lượng sẽ biến
động rất phức tạp.
Hiệp
hội Năng lượng Việt Nam (VEA) cũng đưa ra một dự báo về nguy cơ thiếu
hụt năng lượng trong tương lai. Dự báo đến 2025, Việt Nam về cơ bản sẽ
cạn kiệt tài nguyên dầu khí. Năng lượng không tái tạo được đang ngày
càng cạn kiệt, nước ta từ vị trí xuất khẩu than ròng đã phải nhập khẩu
để phục vụ nhu cầu năng lượng trong nước. Bên cạnh đó, việc tiêu thụ
nhiều năng lượng sẽ làm gia tăng lượng phát thải ra môi trường, gây hiệu
ứng nhà kính.
Trong
khi hệ thống điện vẫn phát triển chậm và tiềm ẩn khả năng không đảm
bảo an toàn cung cấp điện. Hiện nay, tình trạng thiếu điện đã và đang
xảy ra, gây thiệt hại cho sản xuất và khó khăn trong đời sống của người
dân. Hệ thống điện tuy đã phủ khắp toàn quốc nhưng do nhu cầu tăng
nhanh, trong khi tiến độ thực hiện quy hoạch chậm, nên hệ thống điện
vẫn tiềm ẩn khả năng không đảm bảo an toàn cung cấp điện. Trong khi đó,
việc xây dựng một nhà máy điện phải mất từ 4-6 năm. Vì thế, mục tiêu
10 năm tới phải phát triển thêm gần 50.000 MW điện không phải là việc
dễ thực hiện.
Sử dụng còn lãng phí và thiếu hiệu quả
Bên
cạnh việc thiếu hụt năng lượng lớn, Việt Nam cũng đang đối mặt với một
thực trạng còn đáng lo ngại hơn, đó là sử dụng năng lượng lãng phí và
thiếu hiệu quả.
Theo
tính toán của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC)
năm 2007, thì Việt Nam phải mất đến 0,463 kg dầu để làm ra 1 USD, số
liệu này cao hơn các nước khác khoảng 30-40%. Nếu tăng trưởng GDP ở mức
8-9% thì tăng trưởng về điện của nước ta thường phải gấp đôi, vào
khoảng 16-18%, trong khi với các nước khác, tỷ lệ này chỉ là 1:1. Như
vậy, nếu GDP càng tăng, thì tiêu tốn năng lượng của chúng ta càng lớn.
Đối
với việc sử dụng năng lượng trong các ngành công nghiệp, theo ông
Nguyễn Văn Long, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ và Tiết kiệm năng
lượng - Tổng cục Năng lượng (Bộ Công Thương), đa số các ngành công
nghiệp của nước ta là những ngành thuộc loại tiêu tốn nhiều năng lượng.
Cường độ năng lượng trong công nghiệp của Việt Nam cao hơn Thái Lan và
Malaysia khoảng 1,5-1,7 lần, có nghĩa là để làm ra cùng một giá trị sản
phẩm như nhau, Việt Nam phải tiêu tốn năng lượng gấp 1,5-1,7 lần so
với các nước nói trên (Ngọc Loan, 2013).
Trong
lĩnh vực sản xuất công nghiệp, hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp đều
đã đạt hiệu quả nhất định từ các giải pháp tiết kiệm năng lượng đơn
giản, như: cải tạo hệ thống chiếu sáng, giao chỉ tiêu sử dụng điện, lắp
biến tần cho thiết bị... Hơn nữa, tiêu thụ năng lượng đối với các cơ
sở sản xuất công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Chính vì vậy, tiềm năng
tiết kiệm năng lượng trong ngành này tương đối lớn, theo tính toán của
Vụ Khoa học công nghệ và Tiết kiệm năng lượng - Tổng cục Năng lượng (Bộ
Công Thương), thì tiềm năng tiết kiệm bình quân trong ngành công
nghiệp đến hơn 20%. Năng lượng tiêu hao cho một đơn vị sản phẩm các
ngành công nghiệp chính của nước ta cao hơn nhiều so với các nước phát
triển. Ví dụ, để sản xuất 1 tấn thép từ nguyên liệu quặng, các nhà máy
thép của nước ta cần 11,32 đến 13,02 triệu Kcal, trong khi mức tiên
tiến của thế giới chỉ cần 4 triệu Kcal; luyện thép từ thép phế liệu
nước ta cần 2,82 triệu Kcal, thế giới cần 2 triệu Kcal.
Theo
khảo sát của Bộ Xây dựng năm 2011, đối với tòa nhà là trụ sở cơ quan
hành chính: thiết bị sử dụng nhiều năng lượng là điều hòa không khí trên
70%, đèn chiếu sáng chiếm 10%, thang máy và máy bơm nước gần 20%. Đối
với tòa nhà là trung tâm thương mại, siêu thị: thiết bị sử dụng nhiều
năng lượng là điều hòa không khí khoảng 75%, thiết bị chiếu sáng là 10%,
các thiết bị khác chiếm 15%. Trên thực tế, nếu áp dụng đồng bộ các
giải pháp thiết kế kiến trúc, sử dụng các vật liệu tiết kiệm năng
lượng; lắp đặt và vận hành các trang thiết bị có hiệu suất năng lượng
cao; có cán bộ quản lý năng lượng đủ trình độ; tận dụng không gian và
ánh sáng tự nhiên…, thì có thể tiết kiệm từ 30-40% năng lượng tiêu thụ.
Đối với các công trình đang hoạt động, hoặc sắp cải tạo, nếu tiến hành
kiểm toán năng lượng và sau đó triển khai các giải pháp tiết kiệm năng
lượng, thì có thể tiết kiệm được từ 15-25%.
Nguyên nhân do đâu?
Thực trạng sử dụng năng lượng còn nhiều bất cập như vậy là do:
Tuy
Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả có hiệu lực thi hành từ
ngày 1/1/2011 là văn bản luật có tính pháp lý cao, nhưng nhìn chung, hệ
thống các văn bản chính sách về tiết kiệm năng lượng còn chưa đồng bộ.
Các văn bản pháp luật cũng còn thiếu một số quy định, quy chuẩn, tiêu
chuẩn hướng dẫn kỹ thuật về tiết kiệm năng lượng nói chung và các công
trình xây dựng nói riêng. Cụ thể, như: quy định về việc sử dụng hệ
thống điều hòa không khí, lớp vỏ công trình có thiết kế và vật liệu
không đảm bảo yêu cầu tiết kiệm năng lượng…
Ý
thức về tiết kiệm năng lượng của người sử dụng còn hạn chế, nhưng chưa
có chế tài xử lý các hành vi vi phạm về sử dụng lãng phí năng lượng.
Việc
định giá năng lượng còn nhiều bất cập (còn bù lỗ, bù chéo lớn giữa các
nhóm khách hàng…), gây bất lợi cho phát triển sản xuất, kinh doanh và
không phù hợp với xu hướng chính sách giá năng lượng của các nước trong
khu vực và trên thế giới.
Thiết
bị máy móc, dây chuyền công nghệ sản xuất của các doanh nghiệp còn lạc
hậu, các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật, hiệu suất còn thấp và gây ô nhiễm
môi trường. Sâu xa của vấn đề này là do ý thức về việc sử dụng năng
lượng tiết kiệm và hiệu quả của doanh nghiệp còn chưa tốt, vì thế, đầu
tư cho phát triển năng lượng còn thấp. Hơn nữa, trong quá trình tiếp cận
với các giải pháp tiết kiệm năng lượng, doanh nghiệp gặp phải nhiều
khó khăn, trong đó rào cản lớn nhất là vấn đề tài chính. Thêm vào đó,
đang hoạt động ổn định mà phải thay đổi thói quen, quy trình, đổi ca,
đổi giờ làm việc, rất dễ ảnh hưởng đến sản xuất. Không ít doanh nghiệp
còn e ngại, khi ứng dụng giải pháp tiết kiệm năng lượng sẽ phải "khai
báo" với đơn vị kiểm toán năng lượng về quy trình sản xuất, thông tin
kỹ thuật công nghệ, lượng và chất nhiên liệu...
Số
doanh nghiệp có cán bộ chuyên trách về quản lý năng lượng hoặc có kinh
nghiệm về quản lý năng lượng còn ít. Hơn nữa, năng lực, trình độ của
các cán bộ phụ trách về lĩnh vực này vẫn chưa đáp ứng được việc xây
dựng một chiến lược tiết kiệm năng lượng bài bản cho doanh nghiệp.
Hướng tới giải pháp hiệu quả và bền vững
Từ
thực trạng ngành năng lượng của Việt Nam như trên, cần phải có một kế
hoạch phát triển dài hạn nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm an toàn năng lượng quốc gia. Theo nghiên cứu của chúng tôi,
cụ thể, cần tiến hành đồng bộ các giải pháp sau:
Về phía Nhà nước:
Thứ
nhất, cần coi an ninh năng lượng là một trong những vấn đề được ưu
tiên hàng đầu trong chính sách thương mại và chính sách đối ngoại của
Nhà nước. Mở rộng đầu tư và trao đổi hàng hoá, dịch vụ liên quan đến
năng lượng. Có chính sách ưu đãi về tài chính và mở rộng hợp tác quốc
tế để tăng cường công tác tìm kiếm thăm dò nhằm nâng cao trữ lượng và
khả năng khai thác than, dầu, khí đốt, năng lượng mới và tái tạo. Đảm
bảo trữ lượng về nhiên liệu hoá thạch trong nước (than, dầu và khí đốt)
trên quan điểm tối ưu hoá sử dụng và kéo dài độ sẵn sàng trữ lượng
năng lượng.
Thứ
hai, cần coi trọng vai trò của quy hoạch phát triển ngành công nghiệp
và quy hoạch xây dựng đô thị trong sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu
quả. Theo đó, cần xây dựng một quy hoạch chung nhằm đảm bảo an ninh
năng lượng quốc gia. Bởi hiện nay, tuy Việt Nam đã có 7 quy hoạch ngành
điện, 5 quy hoạch ngành than, 3 quy hoạch ngành dầu khí, 1 dự thảo Quy
hoạch phát triển năng lượng mới và tái tạo và Chiến lược phát triển
năng lượng quốc gia được phê duyệt lần đầu tiên vào năm 2007; nhưng các
quy hoạch này lại xây dựng độc lập, sự liên kết, cân đối chung về nhu
cầu và khả năng đáp ứng nguồn cung năng lượng giữa các ngành còn yếu.
Bên cạnh đó, hệ thống đô thị phải được phát triển và phân bố hợp lý
trên địa bàn cả nước, tạo ra sự phát triển cân đối giữa các vùng lãnh
thổ và phải đảm bảo phát triển bền vững.
Thứ
ba, đẩy mạnh phát triển nguồn năng lượng tái tạo, như: mặt trời, gió,
thủy điện, sinh học, đại dương… Việt Nam với lợi thế là một trong những
nước nằm trong dãi phân bổ ánh nắng mặt trời nhiều nhất trong năm trên
bản đồ bức xạ của thế giới, với bờ biển dài hơn 3.000 km và lượng
gió tại nhiều vùng miền rất dồi dào, chúng ta cần nghiên cứu,
tiếp cận những công nghệ mới hơn, hiện đại hơn để loại bỏ được những
nhược điểm của nguồn năng lượng tái tạo và đưa chúng trở thành nguồn
cung cấp năng lượng chính trong tương lai.
Thứ
tư, vướng mắc lớn nhất của các doanh nghiệp hiện nay đó là việc huy
động vốn để đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị theo hướng tiết kiệm năng
lượng. Vì vậy, Bộ Công Thương cần phối hợp với các sở, ban, ngành, các
trung tâm tiết kiệm năng lượng tạo cơ chế nhằm hỗ trợ cho các doanh
nghiệp tháo gỡ khó khăn khi thực hiện các hoạt động tiết kiệm năng
lượng. Đồng thời, hỗ trợ các doanh nghiệp giảm thiểu tối đa chi phí năng
lượng trong bối cảnh sản xuất khó khăn và chi phí năng lượng đang tăng
cao.
Thứ
năm, ngoài việc tuyên truyền rộng rãi, tăng cường tư vấn để người dân
và doanh nghiệp có ý thức và nắm vững các giải pháp tiết kiệm năng
lượng, Chính phủ phải có chế tài xử lý nghiêm minh, kiểm tra, giám sát
tiêu thụ điện ở các doanh nghiệp. Có chính sách giá bán điện hợp lý theo
giờ cao điểm, thấp điểm; giá điện theo mùa và theo nhóm đối tượng sử
dụng.
Thứ
sáu, từng bước loại bỏ rào cản về thể chế, cơ chế tài chính cho đầu tư
năng lượng mới và tái tạo, khai thác hiệu quả nguồn thu từ cơ chế phát
triển sạch. Đẩy mạnh tăng cường hợp tác quốc tế, xây dựng chính sách,
giải pháp thích hợp cho chương trình sử dụng điện tiết kiệm và hiệu
quả.
Thứ
bảy, áp dụng các biện pháp khuyến khích và bắt buộc đổi mới công nghệ,
thiết bị của các ngành sử dụng nhiều điện như thép, xi măng, hóa
chất...; cấm nhập khẩu các thiết bị, máy móc, dây chuyền, công nghệ lạc
hậu, tiêu tốn nhiều điện năng…
Về phía doanh nghiệp:
Cần
thay đổi nhận thức về vấn đề sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Coi tiết kiệm năng lượng là một hoạt động đem lại lợi nhuận không nhỏ
trong bài toán thu-chi và tiết kiệm năng lượng là tiết kiệm tiền cho
chính doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, trên địa bàn Hà Nội có 5.310 doanh
nghiệp lớn, nhỏ, tỷ lệ năng lượng tiêu thụ cho hoạt động sản xuất công
nghiệp trên địa bàn chiếm 70% tổng năng lượng tiêu thụ của toàn Thành
phố. Nếu chỉ cần 30% doanh nghiệp ứng dụng giải pháp tiết kiệm năng
lượng, thì lượng điện nói riêng và năng lượng nói chung của Hà Nội tiết
kiệm được rất lớn.
Cần
xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh doanh phù hợp với trình độ công nghệ
và cần có chiến lược dài hạn về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu
quả phù hợp với từng đơn vị.
Chú
trọng đầu tư các thiết bị mới, hiện đại; đảm bảo tối ưu hóa quy trình
công nghệ sản xuất, áp dụng hệ thống quản lý tiên tiến mà các nước trên
thế giới đã áp dụng thành công. Theo đó, cần áp dụng đồng bộ các giải
pháp thiết kế; sử dụng các vật liệu tiết kiệm năng lượng; lắp đặt và
vận hành các trang thiết bị có hiệu suất năng lượng cao. Thường xuyên
bảo trì, bảo dưỡng máy móc để tăng tuổi thọ, giảm tiêu hao năng lượng
cho động cơ…
Mỗi
doanh nghiệp cần có cán bộ chuyên môn phụ trách về quản lý năng lượng.
Đồng thời, tiếp tục đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ này.
Về phía người dân:
Việc sử dụng tiết kiệm năng lượng là cách vừa tiết kiệm vì lợi ích cho
cá nhân, cho gia đình, cho con cháu mai sau, vừa làm giảm những nguy
gây hại cho môi trường. Vì vậy, mỗi cá nhân ngoài việc tiết kiệm những
nguồn năng lượng mà mình đang sử dụng, thì cần chung tay góp sức cùng
cộng đồng, doanh nghiệp ủng hộ, tham gia các hoạt động tiết kiệm năng
lượng, như: hưởng ứng Giờ Trái đất, thi đua “Gia đình tiết kiệm điện”…
Nguồn : VNEEP