Từ lúc bắt đầu được phát triển cho điện
thoại, điều biên đã được sử dụng để thêm thông tin âm thanh vào dòng
điện một chiều công suất thấp chảy từ một điện thoại phát đến điện
thoại thu. Với giải thích đơn giản là, tại đầu cuối phía phát, micro
điện thoại được sử dụng để biến đổi cường độ của dòng điện được truyền,
theo tần số và âm sắc của âm thanh nhận được. Sau đó, tại đầu cuối
phía thu của đường dây điện thoại, dòng điện tác động vào một nam châm
điện, được tăng và giảm để phù hợp cường độ của dòng điện. Lần lượt,
các nam châm điện tạo ra rung động trong màng rung của máy thu, vì thế
tái tạo gần chính xác máy biến tần số và âm sắc của các âm thanh gốc nghe thấy ở phía phát.
Trái ngược với điện thoại, trong thông
tin vô tuyến cái được điều chế là một tín hiệu vô truyến sóng liên tục
(sóng mang) được tạo ra bởi một máy phát vô tuyến. Trong dạng cơ bản
của nó, điều chế biến độ tao ra một tín hiệu với công suất tập trung ở
tần số sóng mang và ở hai dải biên liền kề. Quá trình này được gọi là
tạo phách. Điều chế biên độ mà kết quả là hai dải biên và một sóng mang
thường được gọi là điều chế biên độ biên kép (DSB-AM). Điều biên kiểu
này không có hiệu quả do năng lượng tập trung ít nhất 2 phần 3 ở tần số
sóng mang nhưng lại không mang thông tin hữu ích, còn hai biên mang
thông tin hữu ích thì chỉ có năng lượng thấp, mặc dù chỉ cần một trong
hai dải biên là có thể truyền tin do hai dải biên chứa thông tin giống
hệt nhau.
Để tăng hiệu quả máy phát, sóng mang có
thể được loại bỏ (hay triệt bỏ một phần) khỏi tín hiệu AM. Kiểu điều
biên này tạo ra tín hiệu giảm sóng mang hay tín hiệu biên kép triệt sóng
mang (DSBSC). Giải pháp điều chế biên độ triệt sóng mang có hiệu quả
về năng lượng gấp 3 lần so với DSB-AM thông thường. Nếu sóng mang chỉ
bị triệt một phần, một tín hiệu biên kép triệt một phần sóng mang
(DSBRC) được tạo ra. Các tín hiệu DSBSC và DSBRC cần sóng mang của chúng
phải được khôi phục (ví dụ bằng một bộ dao động phách) để giải điều chế
sử dụng các kỹ thuật thông thường.
Thậm chí hiệu quả cao hơn sẽ đạt được
bằng cách triệt hoàn toàn cả sóng mang và một trong hai dải biên. Tương
ứng với hiệu quả cao là độ phức tạp của máy thu và máy phát cũng tăng
lên dẫn đến chi phí tăng may bien tan gia re. Đây là kiểu điều chế đơn biên, được sử dụng rộng rãi trong vô tuyến nghiệp dư do hiệu quả sử dụng năng lượng và dải tần.
Một dạng AM đơn giản thường được sử dụng
cho truyền dẫn số là khóa bật tắt (on-off keying), một kiểu của ASK
(amplitude-shift keying - khóa dịch biên), trong đó dữ liệu nhị phân
được biểu diễn như việc có hoặc không có một sóng mang. Điều này thường
được sử dụng trong các tần số vô tuyến để truyền mã Morse, được gọi
hoạt động sóng liên tục (CW).
Năm 1982, Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU) phân loại các kiểu điều chế biên độ như sau:
Tên gọi
Miêu tả
A3E | hai dải biên và sóng mang đầy đủ - kiểu điều chế AM cơ bản |
R3E | đơn biên và giảm một phần sóng mang |
H3E | đơn biên và sóng mang đầy đủ |
J3E | đơn biên triệt sóng mang |
B8E | phát dải biên độc lập |
C3F | dải biên còn sót |
Lincompex | kết hợp bộ nén và bộ giãn |